Tỷ giá và Gợi ý chính sách 2025 [Trả lời phỏng vấn]
Rất lâu rồi mới trả lời phỏng vấn của báo chí vì năm 2024 quá bận. Nhưng bước sang năm 2025 sẽ dành riêng khung thời gian cho việc nêu quan điểm trên truyền thông. Khai bút bằng Tỷ giá và Chinh sách!
Câu 1: Năm 2024 đã khép lại, nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới, đặc biệt là Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đồng loạt đưa ra quyết định hạ lãi suất. Nhìn lại năm 2024 và dự báo năm 2025 sắp tới, theo ông, xu hướng nới lỏng tiền tệ đem lại những tác động tích cực gì tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam và sự phục hồi của doanh nghiệp?
Theo tôi thì xu hướng nới lỏng của toàn cầu hiện nay là yếu tố quan trọng nhất tác động tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong 2024,2025 và cả 2026. Xu hướng này mang lại ba lợi ích lớn cho kinh tế Việt Nam:
Thứ nhất, hiện tại dự trữ ngoại hối còn khá mỏng, Chính sách tiền tệ của Việt Nam gần như phải phụ thuộc hoàn toàn vào chính sách tiền tệ của Fed. Chúng ta chỉ có thể nới lỏng hạ lãi suất hoặc bơm tiền vào nền kinh tế nếu như chính sách của Fed cũng là nới lỏng. Họ nới lỏng càng nhanh và mạnh thì chúng ta cũng có không gian nhiều hơn cho hỗ trợ nền kinh tế và doanh nghiệp.
Thứ hai, sự chênh lệch lãi suất cao khi Mỹ bước vào chu kỳ thắt chặt đã kéo dòng vốn đầu tư dịch chuyển về Mỹ. Điều này ngược lại làm dòng vốn từ khối ngoại trong nước bị thiếu hụt nghiêm trọng, gián tiếp gây thêm áp lực thiếu hụt nguồn vốn đầu tư trong nước. Khi sự chênh lệch lãi suất không còn thì áp lực này sẽ được giải tỏa rất nhiều, chúng ta đang hy vọng tích cực hơn có thể đảo ngược.
Thứ ba, trong trung hạn nhu cầu quốc tế sẽ được kích thích nhờ chính sách tiền tệ mở rộng toàn cầu, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho xuất khẩu Việt Nam, đặc biệt trong các ngành chủ lực như dệt may, điện tử và nông sản,....
Nhìn lại năm 2024, nhà điều hành đã triển khai những biện pháp gì để giảm căng thẳng tỷ giá, giữ sức mạnh đồng nội tệ?
Trong năm 2024 SBV đã áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp để giảm căng thẳng tỷ giá trong bối cảnh áp lực từ toàn cầu là rất lớn. Các biện pháp này bao gồm:
Bán ra thị trường khoảng 9.5 tỷ USD (theo ước tính cá nhân tôi), đưa dự trữ ngoại hối về gần 81 tỷ USD. Điều này cũng gián tiếp đã hút bớt khoảng 240 ngàn tỷ VND khỏi nền kinh tế. Xoa dịu áp lực tỷ giá tại những giai đoạn mà nhu cầu USD thực để thanh toán cao điểm.
Tăng lãi suất bán tín phiếu trên thị trường mở từ trung bình 3.9% lên 4%, song song với đó hút bớt lượng bớt thanh khoản khỏi hệ thống, có thời điểm số dư tín phiếu đạt gần gần 93 ngàn tỷ đồng. Hành động này đã giúp duy trì lãi suất liên ngân hàng trong nước quanh mức 4%, không quá thấp so với lãi suất Fed Fund Rate của Mỹ. Giảm tải áp lực lên đầu cơ tỷ giá ngắn hạn.
Tăng tỷ giá trung tâm từ 23,866 đồng vào cuối năm 2023 lên 24,327 đồng cuối năm 2024, song song với đó là tăng tỷ giá bán ra của SBV từ 25,009 đồng lên 25,450 đồng vào cuối năm 2024. Hai hành động đồng bộ một mặt mở thêm không gian giúp tỷ giá bám sát diễn biến thị trường hơn nhưng cũng đảm bảo không biến động quá lớn gây áp lực đến nền kinh tế.
Cuối cùng là thanh kiểm tra, giám sát giao dịch ngoại hối chính thức tại các ngân hàng, tránh hiện tượng trục lợi, liên thông giữa thị trường chính thức và chợ đen. Thắt chặt các quy định về giao dịch ngoại tệ của các tổ chức tài chính và cá nhân, đặc biệt trong các thời điểm biến động căng thẳng.
Câu 2: Sau nhiều lần Fed và nhiều ngân hàng trung ương lớn trên thế giới hạ lãi suất cắt giảm lãi suất, tưởng chừng xu hướng nới lỏng tiền tệ mạnh mẽ hơn, đồng pha với chính sách tiền tệ tại Việt Nam và xoa dịu áp lực tỷ giá. Tuy nhiên, sức ép tỷ giá vẫn căng thẳng như giai đoạn trước khi Fed hạ lãi suất.
Nhiều dự báo cho thấy giá USD có thể vượt 26.000 đồng năm nay. Nhiều chuyên gia để ngỏ khả năng điều hành chính sách tiền tệ sẽ đảo chiều năm tới, thay vì tiếp tục duy trì xu hướng nới lỏng do còn nhiều nhân tố đẩy lãi suất lên cao hơn là giảm (đặc biệt là chính sách trong nhiệm kỳ Trump 2.0, quỹ dự trữ ngoại hối hao hụt đáng kể, xu hướng rút ròng vốn của khối ngoại...).
Theo ông, nhân tố nào khiến sức ép tỷ giá vẫn chưa thể hạ nhiệt đầu năm 2025? Việc Fed hạ liều lượng giảm lãi suất năm tới gây thách thức gì đến việc điều hành tỷ giá năm tới, thưa ông?
Về vấn đề tại sao mặc dù Fed đã hạ lãi suất nhưng tỷ giá vẫn áp lực trong giai đoạn vừa qua thì có thể kể đến ba nguyên nhân cốt lõi sau:
Đầu tiên, Fed hạ lãi suất từ tháng 10/2024 nhưng Việt Nam đã hạ lãi suất đón đầu trước đó từ tháng 8 rồi, ngoài ra thì mức khung chính sách lãi suất hiện tại của fed vẫn đang cao hơn hành lang lãi suất chính sách của Việt nam từ 0.5-1%. Hay nói cách khác là lãi suất của chúng ta nếu tính cả phần bù rủi ro thì vẫn thấp hơn lãi suất của Fed rất nhiều. Mỹ vẫn là sự lựa chọn hấp dẫn hơn với dòng vốn đầu tư quốc tế.
Thứ hai, Sức khỏe kinh tế Mỹ tốt hơn so với phần còn lại của thế giới, lãi suất của Mỹ cũng hấp dẫn hơn so với phần còn lại của thế giới. Vậy nên sự dịch chuyển dòng vốn vào các tài sản tại Mỹ và sự hấp dẫn của đồng USD so với các đồng tiền khác là khó tránh khỏi. Xu hướng mạnh lên của đồng USD vẫn không suy giảm kể cả khi Mỹ đã bắt đầu bước vào chu kỳ giảm lãi suất. Vấn đề tỷ giá không chỉ riêng của mỗi Việt Nam.
Thứ ba, chính sách của chúng ta có phần ôm đồm khi vừa muốn tăng trưởng kinh tế, vừa muốn ổn định tỷ giá. Điều này đã làm chính sách tiền tệ trong nước không thể xử lý dứt điểm bất cứ mục tiêu nào mà bị "đẩy đưa" qua lại giữa hai dòng nước. Chính điều này làm suy giảm niềm tin của thị trường vào sự hiệu quả trong điều hành tỷ giá của ngân hàng nhà nước. Mối lo ngại tỷ giá biến động một lần nữa kích thích tâm lý nắm giữ USD, hạn chế vay USD hoặc đưa USD về nước.
Tổng kết lại thì tỷ giá tiếp tục áp lực là do sự kết hợp của cả yếu tố bên ngoài khi USD mạnh lên, yếu tố bên trong là sự giảm sút tầm ảnh hưởng của nhà điều hành trong việc kiểm soát tỷ giá và cuối cùng là yếu tố tâm lý.
Câu 3. Cũng có ý kiến cho rằng sự suy giảm của đồng USD chỉ xảy ra khi chu kỳ cắt giảm lãi suất đi đến hồi kết trong vài năm tiếp theo. Theo sự quan sát của ông nhiều năm qua, nhận định là chính xác hay không, vì sao?
Tôi cho rằng quan điểm này còn tùy vào tình huống kinh tế Mỹ có hạ cánh cứng hay không. Nếu kinh tế Mỹ hạ cánh cứng, Mỹ phải hạ nhanh lãi suất về 0% và sau đó là nới lỏng định lượng thì sức mạnh đồng USD có thể sẽ suy yếu nhanh. Quan điểm phía trên trong tình huống này là chính xác. Còn nếu kinh tế Mỹ hạ cánh mềm hoặc khả quan hơn là không hạ cánh thì quan điểm trên lại không còn chính xác. Lý do là bởi đồng USD sẽ tiếp tục được hưởng lợi nhờ kinh tế Mỹ khỏe và lãi suất của Mỹ duy trì ở mức cao. Nếu các nên kinh tế lớn khác như Trung Quốc, EU và Nhật,.. tiếp tục lúng túng với câu chuyện phục hồi thì đồng USD có thể còn mạnh mẽ hơn nữa, kể cả khi lãi suất của Mỹ kết thúc hành trình cắt giảm
Câu 4. Trong bối cảnh tỷ giá còn khá căng thẳng, việc giữ mặt bằng lãi suất cho vay hỗ trợ tăng trưởng có khả quan hay không, thưa ông và vì sao?
Một chính sách tiền tệ được gọi là nới lỏng khi lãi suất giảm và tiền được đưa ra nền kinh tế nhiều hơn. Nếu chỉ một trong hai yếu tố trên không đáp ứng thì chính sách tiền tệ đó chưa chắc đã nới lỏng về tổng thể.
Tình huống của Việt Nam trong năm 2024 thì về tổng thể tôi cho rằng chúng ta không nới lỏng như chúng ta nghĩ. Lý do là bởi để giảm lãi suất thì chúng ta phải đánh đổi tỷ giá, tuy nhiên tỷ giá tăng mạnh quá khỏi cam kết thì chúng ta lại phải bán USD. Mà bán USD nghĩa là hút VND về, điều này đồng nghĩa với rút tiền khỏi nền kinh tế. Hay nói cách khác là nền kinh tế được tiếp cận với vốn rẻ hơn nhưng khó tiếp cận hơn.
Bước sang năm 2025 nhà làm chính sách nên đặt câu hỏi về việc doanh nghiệp và nền kinh tế nói chung đang cần gì ở thời điểm hiện tại. Họ cần chi phí vốn rẻ hơn hay cần dễ dàng tiếp cận vốn hơn. Cá nhân tôi cũng là một nhà kinh doanh, một nhà đầu tư. Trên quan điểm của mình thì trong bối cảnh hiện nay tôi cho rằng họ cần tiếp cận vốn nhiều hơn, người dân cần có nhiều tiền hơn để mở rộng hầu bao chi tiêu hơn. Chi phí vốn như hiện tại đã là đủ để doanh nghiệp vận hành tốt, cái chúng ta cần là kích thích chi tiêu, mở rộng đầu ra cho doanh nghiệp.
Tổng kết lại thì chúng ta cần chấp nhận giữ hoặc tặng nhẹ mặt bằng lãi suất để giảm bớt áp lực tỷ giá và áp lực rút vốn. Song song với đó chính sách tài khóa và tiền tệ kết hợp để có những biện pháp kích cầu trong nước mạnh hơn nữa. Doanh nghiệp giờ cần bán được hàng, cần tiếp cận vốn nhiều hơn là cần chi phí vốn thấp.
- Thằng nghiện dữ liệu